Home / Văn mẫu / Lớp 12 / Tư liệu về bài thơ Tây Tiến và tác giả Quang Dũng

Tư liệu về bài thơ Tây Tiến và tác giả Quang Dũng

“Quang Dũng viết khá sớm (trước Tây Tiến – 1948, anh đã làm thơ, mặc dù phải từ Tây Tiến, anh mới khẳng định được một phong cách thơ riêng) và sáng tác nhiều thể loại. Tác giả của bài hát Ba Vì mờ cao mà mỗi nốt nhạc, lời thơ từng lắng sâu vào đáy hồn những người thanh niên xa nhà đi kháng Pháp, cũng là tác giả của nhiều bài thơ tình nằm trong ký ức sâu thẳm và thành hành trang tinh thần của nhiều thế hệ, nhiều thời (Mắt người Sơn Tây, Tây Tiến, Những làng đã qua, Đường trăng…) mà phần nhiều được truyền bằng những bản chép tay chứ không cần đến bản in giấy trắng, mực đen. Quang Dũng là tác giả của những tập truyện ký, với phong thái riêng khó lẫn, lại cũng là tác giả của những bức tranh, đa phần là tranh lụa, vẽ phong cảnh. Viết sớm và nhiều như vậy, nhưng vốn là người thích “giang hồ”, lại vốn không chuyên tâm đến việc xuất bản, in ấn và lưu giữ, vì thế sáng tác của Quang Dũng bị thất lạc nhiều. Và, cho đến hết đời, Quang Dũng vẫn chỉ là chủ nhân của một gia tài không mấy lớn lao so với những bạn viết cùng lứa, cùng thời: hai tập thơ và ba tập văn xuôi (kể cả những tập in chung với bạn thơ, bạn văn).

loading...

Quang Dũng sống đôn hậu và trong con người đôn hậu ấy ẩn chứa một tâm hồn nghệ sĩ hùng hậu, đầy vẻ dân dã. Dù sớm phải xa quê, giã nhà đi kháng chiến, nhưng trên suốt nẻo đường chinh chiến, đi đâu, đến đâu và làm gì, con người bình dị ấy vẫn luôn hướng về quê hương. Quang Dũng có khả năng hòa hợp tuyệt diệu và rung động tinh nhạy với những chòm xóm, cảnh quê, với tình cảm đồng quê chân mộc, lam lũ nhưng cũng rất thơ mộng. Chính cảm xúc hồn hậu ấy, cái hồn quê ấy là cái hồn của những bức tranh quê được phát vẽ tài tình trong thơ anh bằng ngòi bút của một nghệ sĩ có năng khiếu thẩm mĩ tổng hợp – “Cầm, kì, thi, hoạ”. Cảnh hiện lên trong thơ anh không bàng bạc mà có thần thái, sinh động trong sự hòa hợp nhuần nhuyễn của âm thanh với sắc màu, của tình với cảnh. Có một sức gì níu giữ, gợi cảm ở những cảnh quê chân mộc thế này:

Bến cuối thôn xuân hoa gạo rơi
Sông xanh hiền triết lặng trôi xuôi
Đò ngang một chuyến qua mưa bụi
Ấm áp trong mưa tiếng nói cười…

Hoặc:

Là những đường quân qua bến làng
Hoa nhài thơm ngõ đượm quân trang
Lớp này lớp khác người sang hết
Thuyền lại nằm phơi dưới nguyệt vàng
Hoặc nữa: Nắng nửa sông xa mờ khí núi
Cánh hồng nhạt nhạt mây phiêu lưu…

Trong thơ Quang Dũng, hầu hết là những “bức tranh quê” như thế. Với ý tưởng chủ đạo “quê hương trường cửu cùng non nước; Ba chục năm trời vẹn ý thơ”,Quang Dũng đã cố gắng lột tả cho hết vẻ đẹp nồng hậu của quê hương Việt Nam với những nét đặc sắc riêng không lẫn, góp cho thơ Việt Nam những bức tranh quê đầm thấm, xúc động lòng người.Trong tình yêu quê hương, đất nước mênh mang ấy, vẫn có một góc niềm riêng sâu thẳm, trong lành nhất, Quang Dũng dành riêng cho xứ Đoài-quê hương anh, nơi anh từng sống gắn bó suốt tuổi thơ. Có người đã nói”Quang Dũng là nhà thơ của xứ Đoài”, quả cũng một phần có lí. Viết về xứ Đoài, thơ anh đằm sâu, da diết cả trong tâm tưởng và tình cảm. Những ngày phải xa quê, canh cánh trong anh là nỗi mong ngóng nhớ nhung khắc khoải về vùng quê xa ấy:

Cách biệt bao ngày quê Bất Bạt
Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì

Nhiều khi không kìm được, anh phải thốt thành lời cho nguôi ngoai nỗi nhớ” Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm…”. Cháy bỏng nỗi khát khao, ngày được trở lại, được say sưa hít thở không khí thôn dã, được đắm mình trong hương mùa màng, được tận hưởng niềm vui thưởng ngoạn tận hưởng vẻ đẹp của quê hương:

Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn
Về núi Sài Sơn ngóng lúa vàng
Sông Đáy chậm nguồn qua Phủ Quốc
Sáo diều khuya khoắt thổi thêm trăng

Có người làm thơ lấy cái “chân” làm gốc, lại cũng có người trọng sự tài hoa. Ở Quang Dũng là sự kết hợp tuyệt vời giữa vẻ đẹp chân chất, dân dã với tài hoa tinh tế. Nhiều bài thơ, do vậy đạt đến độ chân tài. Bên cạnh Tây Tiến, là những bài thơ từng sống và lắng sâu trong tâm tưởng người đọc: Mắt người Sơn Tây, Những làng đã qua, Đường trăng, Những cô hàng xóm…

Quang Dũng viết hồn nhiên và rất thật. Dường như chưa bao giờ anh giấu mình và càng không bao giờ dối mình trong thơ. Từ sự dấn thân, mang đậm hào khí của cả một lớp người thời đại:

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh…

Đến những kỉ niệm, những tâm sự buồn vui của cuộc đời chinh chiến và sau này nữa, cả cảm giác chật chội thiếu chân trời trong Mây đầu ô đều là tâm sự thật, cảm giác thật của riêng anh được bộc bạch trên trang giấy. Những lời nhắc nhở trong Đường chiều thứ bảy, cũng mang nét riêng của Quang Dũng: không gân cốt mà thấm thía bởi đó là sự nhắn gửi thiết tha của một tấm lòng nhân hậu, trọng nghĩa tình.

Thơ Quang Dũng có nhiều bài lắng buồn: Mưa, Quán nước, Thu, Chiều núi mưa rào… Ngay cả cái buồn ấy cũng là tâm trạng thực của anh viết ra nhiều khi dễ gây hiểu lầm, song anh vẫn không ngại bộc bạch.

Quang Dũng không viết một cái gì chung chung. Với anh, thơ là sản phẩm, mang sắc thái riêng và cụ thể những gì anh đã sống trải, quan sát và ghi nhận được.Phần không nhỏ tạo nên sức hấp dẫn và giá trị lâu dài của thơ chính là ở tính cụ thể, chân sát ấy. Nhờ vậy, chúng ta mới có được những bài thơ có sức gợi dựng lại cả một thời hoặc lưu khắc lại chân dung sát thực của cả một thế hệ, dạng như Tây Tiến, Những làng đã qua, đường 12, những cô hàng xóm, đường trăng…

Dù Quang Dũng để lại cho chúng ta không nhiều thơ nhưng mặc nhiên bốn mươi năm nay, anh là nhà thơ được mến mộ. Với Rừng Biển quê hương (tập thơ in chung với Trần Lê Văn), Bài thơ Sông Hồng, Mây đầu ô Quang Dũng đã dành cho chúng ta phần quý đẹp riêng của tâm hồn và cá tính sáng tạo độc đáo của một nghệ sĩ chân tài, đầy nhiệt tâm với quê hương, đất nước và con người.

*********
Quang Dũng vào “làng” thơ cách mạng với bài Tây Tiến . Như có mối duyên gì ràng buộc, bài thơ ấy gắn bó với người làm ra nó đến mức cứ nói đến Quang Dũng là người ta nhớ đến bài thơ Tây Tiến và ngược lại.

(…) Khoảng cuối mùa xuân năm 1947, Quang Dũng, Nguyên Phái Viên phòng quân sự Bắc Bộ và học viên lớp quân sự ở Tông (Sơn Tây ) về Phùng từ giã Mẹ già, Vợ trẻ, con thơ để lên đường gia nhập đoàn quân Tây Tiến. Tây Tiến là một đơn vị quân đội thành lập vào đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt – Lào và đánh tiêu hao quân đội Pháp ở Thượng Lào để hỗ trợ cho những vùng khác trên đất Lào. Địa bàn đóng quân và hoạt động của Tây Tiến khá rộng : từ Châu Mai, Châu Mộc sang Sầm Nứa rồi vòng về qua miền Tây Thanh Hoá. Bộ đội Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, lao động chân tay cũng lắm, trí thức cũng nhiều. Có những học sinh cũ của các trường Sư Phạm, Bưởi, Thăng Long, Văn Lang như Quang Dũng, Vạn Thắng, Tuấn Sơn, Như Trang… Riêng Tuấn Sơn và Như Trang đã đỗ tú tài và thường được gọi là hai “ Cậu Tú”. Bác sĩ Phạm Ngọc Khuê cũng là một trí thức và một thầy thuốc có tiếng. Lại có những nữ chiến sĩ hoa khôi của thủ đô như y tá Phương Lan…Xuất thân “ bình dân” thì có anh trước kia bán “ phá xan” (lạc rang) , có anh trước kia làm đồ tể ở lò mổ. Họ sống với nhau rất vui. Anh đồ tể có thể biểu diễn mổ bò trong chớp mắt để tổ chức liên hoan. Cô y tá xinh đẹp súng lục đeo bên sườn, phi ngựa như bay. Ai thiếu áo thì đồng đội có thể cởi áo tặng ngay. Cái gian khổ, cái thiếu thốn về vật chất của tây Tiến cũng khủng khiếp. Hồi ấy ở rừng, sốt rét hoành hành dữ dội. Đánh trận tử vong ít, sốt rét tử vong nhiều. Đại đội trưởng kim nhạc sĩ Như Trang sáng tác bài hát “ Tiếng còng quân y” tả cái tiếng còng rền rỉ không mấy ngày là không nổi lên ở trạm quân y, báo hiệu một đồng chí qua đời vì sốt rét. Thuốc chữa bệnh rất hiếm, nhất là món Ký ninh vàng. Mỗi buổi sáng, cô y tá bỏ vài viên vào một chai nước. Mỗi bệnh nhân được uống một chén. Thơ Quang Dũng viết “ Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc” là nói về những cái đầu cạo trọc để khi đánh giáp lá cà, Tây cũng không nắm được chiến sĩ ta. Nhưng “ không mọc tóc” còn có nghĩa sốt rét đến nỗi tóc cũng không mọc được. “ Quân xanh màu lá” vì sốt rét như thế mà “ vẫn dữ oai hùm” nhiều trận đánh làm cho giặc Pháp kinh hoàng. Như trận Dốc Đẹt ( trên đường từ Phố Vàng sang Mườn Bi) có những chiến sĩ sốt rét run cầm cập, vẫn nằm nguyên ở vị trí chiến đấu, bắn súng, ném lựu đạn, vần đá từ trên cao xuống tiêu diệt địch. Bọn giặc sống sót phải rút lui xuống Suối Rút .

Đoàn quân tây Tiến, sau một thời gian hoạt động ở Lào trở về thành lập trung đoàn 52. Đại đội trưởng Quang Dũng ở đó đến cuối năm 1948 rồi được chuyển sang đơn vị khác. Rời xa đơn vị cũ chưa bao lâu, ngồi ở Phù Lưu Chanh anh viết bài thơ Tây Tiến. Bài thơ vừa ra đời đã được đọc trong và ngoài quân đội truyền tay, truyền miệng cho nhau. Trong tập “thơ” do nhà xuất bản Vệ quốc quân liên khu III ấn hành năm 1949, bài thơ có nhan đề là “ Nhớ Tây Tiến”. Năm 1957, khi đưa bài này vào tập “ Rừng biển quê hương” ( in chung với Trần Lê Văn – Nhà Xuất Bản hội nhà văn) Quang Dũng bỏ chữ “Nhớ”, chỉ lấy hai chữ “ Tây Tiến”

Bình luận cho bài viết

Nhận xét

Có thể bạn quan tâm

Phân tích đoạn thơ Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa, …. Sông Mã

Phân tích đoạn thơ sau trong bài “Tây Tiến” của Quang Dũngloading... “Doanh trại bừng …