Home / Văn mẫu / Lớp 12 / Làng ở tầm đại bác của đồn giặc… không thấy gì khác ngoài những rừng xà nu nối tiếp tới chân trời

Làng ở tầm đại bác của đồn giặc… không thấy gì khác ngoài những rừng xà nu nối tiếp tới chân trời

Văn học như một dòng sông chảy mãi, chảy mãi theo thời gian. Trên dòng sông văn học ấm áp và xanh đó, biết đếm sao cho hết những dáng núi, hàng cây nghiêng mình bên dòng nước. Nó là biểu tượng cho mỗi dân tộc, mỗi vùng đất, cho niềm tự hào khôn nguôi… Có ai quên rừng bạch dương chạy dài tít tắp đậm đà trong nền văn học đồ sộ Nga, có ai quên những cây hoa anh đào thấp thoáng trong mỗi tâm hồn người Nhật, và Việt Nam chúng ta tự hào với cây tre hiên ngang, thẳng tắp, vững bền theo năm tháng. Nhưng đâu chỉ có cây tre, trên mỗi miền đất nước chúng ta, làm sao có thể quên những rặng dừa xanh, những trái măng cụt hay nhãn nồng Bắc và Tây Nguyên tự hào xiết bao với “Rừng xà nu” kiêu hãnh “ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho dân làng” trong trang văn của Nguyễn Trung Thành. Có thể nói, viết về rừng xà nu, Nguyễn Trung Thành đã trạm tới được một nét đẹp điển hình và đặc sắc của đất Tây Nguyên hoang dại đầy khí phách. Một trong những đoạn văn đặc sắc và có sức biểu cảm nhất của truyện chính là đoạn đầu tác phẩm: “Làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc… Đứng trên đồi xa nu trông ra xa đến hết tầm mắt cũng không thấy gì ngoài những đồi xa nu nối tiếp tới chân trời”.

loading...

Đặt doạn văn vào toàn tác phẩm, ta nhận thấy Rừng xa nu có một kết cấu hay nói đúng hơn là một lối vào đè rất mới lạ: “Làng ở tầm đại bác của đồn giặc. Chúng nó bắn, đã thành lệ, mỗi ngày hai lần, hoặc buổi sáng sớm và xế chiều, hoặc đứng bóng và sẩm tối, hoặc nửa đêm và trở gà gáy”. Nếu như giới thiệu theo lối cổ điển, Nguyễn Trung Thành sẽ giới thiệu tên làng, nguồn gốc, rồi mới nói đến vấn đề ông muốn nói. Nhưng không, vào đề ông nói ngay đến vị trí nguy hiểm “trong tầm đại bác của địch” của dân làng Xô Man mà không hề nhắc đến tên địa danh của làng. Trong cách kể của nhà văn, dường như chúng ta đều biết cái làng đó rồi, như người đi xa lâu ngày không gặp chỉ náo nức muốn biết tình trạng sức khỏe của người thân giờ này ra sao. Và làng xô man trong tiềm thức mỗi chúng ta, dù có thể chưa một lần đặt chân đến, vẫn sao thấy có chút gì thân quen, gần gũi. Trong chiến tranh đâu chỉ có làng Xô Man mới nằm trong tầm đại bác của đồn giặc? Tất cả làng, các xóm trên đất nước Việt Nam này đều chịu chung nỗi đau thương đó. Ta cũng thấy lòng có chút gì đồng điệu.

Nhưng đây không phải làng quê của ta! Nếu như Hoàng Cầm nhớ thiết tha đất Kinh Bắc với “lúa nếp thơm nồng, tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong”, nếu như Nguyễn Đình Thi mơ màng về Hà Nội nhớ, Hà Nội thương với “gió thổi mùa thu hương cốm mới” thì làng Xô Man lại kiêu hãnh và gan góc với “ngọn đồi xa nu cạnh con nước lớn”. Ta nhận ra đây chính là làng Xô Man chứ không phải bất kì một làng nào trên mọi miền đất nước. Có lẽ chính vì tính chất rất “riêng”, “mới lạ” “đặc sắc”, có tính đại diện, phổ quát cao cho các dân tộc Tây Nguyên nên rừng xà nu được Nguyễn Trung Thành miêu tả thật là sinh động, gan góc như một sinh thể có hồn.

Tính chất tàn phá mạnh liệt của chiến tranh in đậm trên mỗi thân cây: “Cả rừng xu nu hàng vạn cây, không có cây nào không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình đổ ào ào như một trận bão, ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra tràn trề, thơm ngào ngọt, long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quện thành từng cục máu lớn”. Chỉ cần ba câu văn thôi nhưng ta có thể thấy trước mắt mình cả một khu rừng xà nu sau mỗi lần “chúng nó bắn”. Nhưng nét đẹp và sự gợi cảm của mỗi câu văn không chỉ là nói lên một hiện tượng tàn khốc mang tính tàn phá huỷ diệt như thế. “Một tác phẩm sẽ chết nếu nó miêu tả chỉ để miêu tả, nếu nó không phải là sự thôi thúc mạnh mẽ sẽ mang tính chủ quan của tinh thần thời đại” (M. Gorki), “của niềm vui và nỗi đau khổ, của nụ cười trong sáng hay giọt nước mắt cay dắng” (Rãun Gamzatop). Những vết thương của cây xà nu không chỉ là sự phản quang tội ác của giặc, không chỉ là sự mất mát hoàn toàn. Nguyễn Trung Thành đã miêu tả những cây xà nu không chỉ là laọi cây thông thường mà dưới góc độ khác, góc độ như một con người, con người Tây Nguyên gan góc, dũng mãnh, đầy quả cảm. Cây xà nu hiên ngang từ dáng đứng thẳng tắp dám hứng “hầu hết đạn đại bác”, đến phẩm chất “thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt”. Tác giả không miêu tả một cây, ông miêu tả cả một rừng cây. Phải chăng một chi tiết nhỏ đó thôi cũng bao hàm một sức chứa lớn. Đó là sự khái quát cao độ của hình tượng cây xà nu đông đảo, toàn diện và có phần chung chung nhưng lại không vô nghĩa, và đặc biệt không hề nhạt nhoà, bé nhỏ. Nó cũng như con người: bị thương và chết đi, nhựa của nó chảy ra “dần dần bầm lại, đen và đặc quện thành từng cục máu lớn”. Đây không phải là một phép so sánh giản đơn mà dường như trong tiềm thức của người nghệ sĩ, cây xa nu gần gũi thân yêu thực sự không phải là vật vô tri vô giác, ông tin đó là một sinh thể, là một con người. Lẽ dĩ nhiên trong văn chương có những điều “bất khả giải”, chỉ có thể cảm nhận bằng cảm giác, đôi khi rất khó tin, thậm chí không có sự “trùng khít giữa cái miêu tả và cái được miêu tả” nhưng cái tài của Nguyễn Trung Thành chính là ông đã tạo ra được “ảo tưởng giống như thiệt” (Fêdine) của sự vật được phản ánh. Ông đã truyền sự rung cảm từ con tim chủ quan người nghệ sĩ sang mỗi chúng ta là người tiếp nhận, khiến chúng ta không chỉ yêu mà còn tin vào sức sống cũng như vẻ đẹp rất “người” tiềm ẩn trong mỗi cây xà nu tưởng hết sức thông thuộc, bình dị. Sức sống mãnh liệt của cây xà nu chính nằm trong sự nối tiếp “cạnh một cây xà nu mới ngã gục đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Đúng như Nguyễn Trung Thành nói “Trong rừng ít có loại cây sinh sôi nảy nở khoẻ như vậy”, sức sống và sự kế tiếp của cây rừng xà nu không khỏi khiến ta cảm phục, dường như có chút gì rạo rực, bâng khuâng… Ta chợt nhớ đến một câu thơ của Tố Hữu:

Lớp cha trước lớp con sau,
Đã thành đồng chí chung câu quân hành

Có thể Nguyễn Trung Thành cũng đâu chỉ viết về sự tiếp nối mạnh mẽ của cây rừng xà nu? Phải chăng đằng sau sức sống và sự “sinh sôi nảy nở như vậy”, còn có một sức sống tiềm ẩn khác của con người Tây Nguyên, của dân làng Xô Man trong kháng chiến. Họ cũng dũng mãnh như cây xà nu với “hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Sức mạnh ngòi bút Nguyễn Trung Thành có lẽ chính là ở ông đã nắm bắt nhuần nhuyễn đặc biệt đó, miêu tả tài hoa và tinh tế sự hoà hợp giữa con người và thiên nhiên Tây Ngưyên, khiến ta thấy thấp thoáng ẩn hiện sau mỗi cây xà nu là sự gan góc, sức sống mạnh mẽ và nụ cuời cởi mở của dân làng Xô Man. Sự hoà nhập đó tạo nên sức gợi cũng như sức sống tiềm tàng của mỗi câu chữ mà Nguyễn Trung Thành sử dụng. Tuy nhiên, cái khéo chính là ông đã miêu tả cây xà nu tuy trong góc độ như một con người nhưng lại không phải là con người. Ông không biến một sinh vật thành một con người đơn giản để cuối cùng mất đi bản sắc của riêng nó. Xà nu là loại cây “ham ánh sáng mặt trời”. “Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh sáng, thứ ánh sáng trong rừng rọi từ cao xuống từng luồng lớn thẳng tắp, lóng lanh vô số hạt bụi vàng từ nhựa cây bay ra, thơm mỡ màng. Có những cây con vừa lớn ngang tầm ngực người lại bị đại bác chặt đứt làm đôi. Ở những cây đó, nhựa còn trong, chất dầu còn loãng, vết thương không lành được, cứ loét mãi ra, năm mươi hôm thi cây chết. Nhưng cũng có những cây vượt lên được cao hơn đầu người, cành lá sum suê như những con chim đã đủ lông mao, lông vũ. Đạn đại bác không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành như trên một cơ thể cường tráng. Chúng vượt lên rất nhanh thay thế những cây đã ngã”.

Thật là quật cường và cũng thật là diệu kì. Có lẽ bản thân những câu văn trên cũng nói lên sức sống cùng phẩm chất ham sống tuyệt vời của cây xà nu. Nhà văn không miêu tả phiến diện đến nỗi khó tin là tất cả các loạ cây dưới tầm đại bác đều còn sống và đều vươn lên với sức mạnh kì diệu. Cây xà nu là như vậy, đẹp đẽ và kiêu hành biết bao. “Tấm ngực lớn” của nó không chỉ thể hiện sức tráng kiện, dũng mãnh đến gai góc của một loại cây ở thời kì trưởng thành đang hoà nhập trong sức mạnh cồng đồng như cả dân làng Xô Man mà còn thể hiện chút chân thực đến say lòng người, cùng niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của chính mình.

Cái hay và đặc sắc của đoạn văn chính là ở chỗ nhà văn đã nhìn rừng xà nu như một sinh thể có hồn hoà nhập vào đời sống nhiệt tình của con người Tây Nguyên nói chung, của dân làng Xô Man nói riêng. Khép lại đoạn văn và cũng là toàn tác phẩm là một câu văn đầy sức gợi: “Đứng trên đồi xa nu trông ra xa, đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời” không phải ngẫu nhiên mà nhà văn Nguyễn Trung Thành sử dụng câu văn này hai lần, ở đoạn này và đoạn cuối tác phẩm. Rừng xà nu dường như đã lớn lên đến sức sống căng tràn nhất, trải dài khắp nẻo đường. Ta như cảm giác cánh tay rừng xà nu đang vươn dài ôm lấy làng Xô Man vào lồng ngực lớn của mình, yêu thương, che chở và bảo vệ. Sức mạnh của khu rừng, của làng Xô Man và của cả một chút gì bí ẩn, hoang sơ gợi sự khát khao, kiếm tìm với người biết yêu thương và sự đe doạ dữ dội đối với kẻ thù xâm lược, kiếm tìm với người biết yêu thương và lời đe doạ dữ dội đối với kẻ thù xâm lược: “Chừng nào chúng ta còn tồn tại thì các người đừng hòng xâm nhập vào đây phá tan cuộc sống yên bình nơi đây”.

Thật là đẹp và cũng thật kì vĩ! Ta cảm giác như choáng ngợp, mỗi lời văn ngập tràn không khí sử thi hoang dã, dũng mãnh, gan góc và đầy bí mật như trong những lời kể về khu rừng già đại ngàn và đời sống của chàng Đam San thưở xưa rực rỡ. Chính sức sống hoang dã, mãnh liệt này là một nét đặc sắc và vô cùng độc đáo của vùng đất Tây Nguyên mà con người dù có viết nhiều về nó mãi mãi không thể nào khám phá hết chiều sâu tận cùng.

“Rừng xà nu” là câu chuyện của cả đời được kể trong một đêm do đó những cảm xúc về cây xà nu chính là những rung cảm mãnh liệt nhất của người nghệ sĩ “được viết ra khi cảm xúc tràn đầy” (Tố Hữu).

Theo lới tác giả kể, câu chuyện được viết ra chỉ trong vòng hai tiếng rưỡi nhưng lại được thai nghén hàng chục năm.Ta chợt hiểu sâu sắc đằng sau những dòng chữ kia là tấm lòng yêu thương chất chứa, dồn nén của người nghệ sĩ. Có lẽ ông đã dồn rất nhiều tâm huyết để dựng lên hình tượng cây xà nu đẹp, đầy gợi cảm và mang sức chứa, khái quát cao độ. Nó xứng đáng là kết tinh của thiên nhiên của con người Tây Nguyên dũng mãnh, gan góc và quật cường. Thành công lớn của đoạn văn chính là hình tượng cây xà nu đã diễn tả sâu sắc và tinh tế nội dung toàn tác phẩm cũng như điều mà nhà văn gửi gắm.

Bình luận cho bài viết

Nhận xét

Có thể bạn quan tâm

BÀI GIẢNG – RỪNG XÀ NU – NGUYỄN TRUNG THÀNH (Cơ Bản)

I. Giới thiệu bài giảng Rừng Xà Nu 1. Tác giả – Tên khai sinh là …