Dàn bài tham khảo

loading...

1. Mở bài:

– Tài hoa và ham thích xê dịch, Nguyễn Tuân đã tạo nên bao nhiêu tuỳ bút cực hay. Chỉ riêng từ những chuyến xuôi ngược sông Đà trong những năm 1958 đến 1960, Nguyễn Tuân đã làm nên một tập Sông Đà, với những tuỳ bút được cọi là đỉnh cao của văn xuôi hiện đại Việt Nam.

– Nói về tác phẩm này, được đánh giá cao nhất là bài viết về Người lái đò sông Đà. Để ca ngợi một người lái đò trên sông Đà, Nguyễn Tuân cũng đồng thời ca ngợi dòng sông tuyệt đẹp.

2. Thân bài:

a. Viết văn mà như vẽ ra một con sông Đà hung bạo, Nguyễn Tuân ca ngợi một dòng sông với vẻ đẹp hùng vĩ ẩn chứa nguồn sức mạnh vô tận của thiê nhiên, nguồn tài nguyên vô tận cho cuộc sống.

– Sông Đà là một dòng sông đặc biệt, bắt đầu từ chỗ nó có một dòng chảy khác hẳn với mọi dòng sông:

Chúng thuỷ giai đông tẩu
Đà giang độc bắc lưu
(Mọi dòng sông đều chảy về đông, Chỉ sông Đà chảy về bắc)

– Một dòng sông được coi là hùng vĩ khi nó có một dòng chảy mênh mông, đặc biệt là khi nó có những ngọn thác lớn. Sông Đà vượt lên trên tầm hùng vĩ ấy.

“Hùng vĩ của sông Đà không chỉ có thác đá. Mà nó còn là những cảnh đá bờ sông, dựng vách thành,mặt sông chỗ ấy chỉ đúng lúc ngọ mới có mặt trời.

… Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hang cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cồn cuộn luồn gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xúyt bất cứ người lái đò sông Đà nào tóm được qua đây.”

– Sông Đà có những vực xoáy nguy hiểm ghê gớm mà nhà văn gọi là những cái “hút nước”
“Trên sông bỗng có những cái hút nước, giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu…”

+ Làm tăng thêm ấn tượng đáng sợ cho những hút nước:

“Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn… Nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô y là những cái giếng ấy nó lôi tuột xuống… thuyền trồng cây chuối ngược rồi vụt biến đi…”

+ Nhà văn cho người đọc thêm một góc nhìn khi đặt mình vào vị trí một nhà quay phim

đặc biệt: “Tôi sợ hãi mà nghĩ đến một anh bạn quay phim táo tợn… đã dũng cảm dám ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả mình cả máy quay xuống đáy cái hút dưới đáy sông Đà, – từ đáy cái hút nhìn ngược lên vách thành hút mặt sông chênh nhau tới một cột nước cao đến vài sải.”

– Con sông Đà hùng vĩ vì những thác nước dữ dội khiến người ta sợ hãi khi nghe tiếng nước từ xa rồi nhìn thấy khi đến gần.

+ Từ xa đã là những âm thanh đặc biệt: “Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, tồi lại như là khiêu khích… Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa.”

+ Đến gần là những hình ảnh, không chỉ là đá mà là quỷ đá: “Ngoặt khúc sông lượn thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá… Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó…”

+ Không chỉ là những con quỷ hung ác, mà là thứ quỷ xảo quyệt, mưu mô trong cuộc chiến chống con người: “Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông… Hàng tiền vệ, có hai hang canh một cửa đá … những boong-ke chìm và pháo đài đá nổi”

b. Con sông Đà không chỉ hung bạo, dữ dội, mà còn là một con sông đặc biệt thơ mộng trữ tình.

– Nhà văn đặt cái nhìn từ trên cao xuống, thu lấy trọn vẹn dòng chảy của con sông Đà:

Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân.”

(Trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân từng có một tập tùy bút Tóc chị Hoài ca ngợi mái tóc đẹp của một người phụ nữ, đẹp như là tiêu chuẩn của cái đẹp.)

– Không chỉ đẹp vì dáng vẻ, con sông Đà còn đẹp vì một màu xanh:

“Mùa xuân dòng sông xanh ngọc bích, chứ nước sông Đà không xanh màu xanh canh hến của sông Gâm sông Lô.” Đây là một sự so sánh độc đáo, một cách nói sáng tạo để ca ngợi vẻ đẹp của dòng sông.

– Nguyễn Tuân diễn tả một cảm xúc đặc biệt:

“Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng.”

+ Hoàn toàn tương phản với những quãng sông Đà hung bạo, dữ dội là những quãng sông Đà êm đềm tĩnh lặng một cách khác thường.

+ Nhà văn đã so sánh để nói lên cảm giác về vẻ êm đềm:

“Cảnh ven sông Đà ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi.”

+ Nhà văn chứng minh cho cảm giác của mình bằng một hình ảnh tuyệt đẹp của cảnh sông Đà mùa xuân:

“Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hưu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa.”

+ Để làm rõ thêm vẻ hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích của bức tranh, nhà văn đã trình bày một cảm xúc rất lạ trong lòng mình: “Chao ôi, thấy them được giật mình vì một tiếng còi xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu tiên”
+ Từ cảm xúc, nhà văn đã để cho trí tưởng tượng bay bổng:

“Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương… hươu vểnh tai nhìn tôi không chớp mắt như hỏi tôi bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành: “Hỡi ông khách sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương.”

– Nhà văn đã kết húc cái cảm giác của mình bằng một hình ảnh bất ngờ, như hình ảnh bật lên từ một giấc mơ:

“Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi.”

– Có lẽ không còn dòng sông nào trên đời đẹp và trữ tình hơn!

3. Kết bài:

– Trong tác phẩm Sông Đà, dành chủ yếu nói về dòng sông Đà chính là bài tùy bút Người lái đò sông Đà.

– Rất hung bạo nhưng cũng rất thơ mộng, trữ tình, con sông Đà là một dòng sông tuyệt đẹp. Qua việc miêu tả, Nguyễn Tuân đã thể hiện vốn hiểu biết sâu sắc của mình về thiên nhiên Tây Bắc.

– Bằng vốn sống thực tế, bằng sự tài hoa, uyên bác, bằng kho từ vựng phong phú và việc sử dụng thích hợp những biện pháp tu từ… Nguyễn Tuân đã tạo nên một nhân vật sông Đà hết sức sống động, độc đáo không thua kém gì nhân vật ông lái đò. Qua đó, ta thấy được một tình yêu thiên, cuộc sống hết sức sâu đậm của Nguyễn Tuân.